Quy định về bảo vệ Phụ nữ, Trẻ em trong quan hệ Hôn nhân gia đình, Ly hôn

QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ PHỤ NỮ, TRẺ EM TRONG VỤ ÁN LY HÔN

Ngày nay, mặc dù nhận thức xã hội đã tiến bộ, dân chủ về bình đẳng giới nhưng phụ nữ vẫn còn phải đối mặt với nhiều vấn đề bất bình đẳng trong xã hội. Ngay cả trong quan hệ gia đình vẫn còn tư tưởng coi phụ nữ là người phải chịu trách nhiệm chăm sóc con cái và làm công việc nội trợ, bất hạnh hơn có thể là bị xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm...Bởi vậy, để đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em trong quan hệ hôn nhân gia đình, đặc biệt khi ly hôn, pháp luật Hôn nhân gia đình đã có những quy định để bảo vệ hai đối tượng này, cụ thể như sau:

1. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn.

Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng, khi một trong hai bên cảm thấy mục đích hôn nhân không đạt được hoặc xảy ra xung đột không thể hòa giải. Mặc dù vợ hoặc chồng đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nhưng để bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ, tại Khoản 3 Điều 51 Luật HNGĐ 2014có quy định hạn chế quyền ly hôn của người chồng như sau:

“Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”.

Bên cạnh đó, người vợ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi vẫn có quyền đơn phương yêu cầu ly hôn nếu cảm thấy mục đích hôn nhân không đạt được, cụ thể là tại Khoản 1 Điều 56 Luật HNGĐ 2014:

Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

2. Quyền chia tài sản sau khi ly hôn.

Khi giải quyết ly hôn, người vợ thường yếu thế hơn về vấn đề chia tài sản. Bởi vậy, để đảm bảo lợi ích cho người vợ, từ Khoản 1 đến Khoản 5 Điều 59 Luật HNGĐ 2014 đã có quy định về “nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn” như sau:

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”

Như vậy, có thể thấy việc chia tài sản chung của vợ chồng có hai trường hợp là chia theo thỏa thuận và chia theo pháp luật. Đặc biệt tại Khoản 2 Điều này, để bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ, Luật có quy định rằng tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố như hoàn cảnh của gia đình và của vợ; công sức đóng góp của vợ vào việc tạo lập duy trì và phát triển khối tài sản chung; lao động của vợ trong gia đình được coi như lao động có thu nhập. Bên cạnh đó, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng cũng sẽ là yếu tố được xem xét trong việc chia tài sản chung. Thực tế cho thấy, phần lớn việc ly hôn thường xuất phát từ yếu tố này và từ phía người chồng, dẫn đến hôn nhân đổ vỡ (như ngoại tình, bạo lực gia đình, phá tán tài sản,….) Vì vậy, cần xét đến yếu tố lỗi để việc phân chia tài sản cho người phụ nữ được đảm bảo hơn.

Ngoài ra, Khoản 5 Điều này cũng đề cập đến nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng còn phải xem xét đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên hay bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Đây là một nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích cho phụ nữ và trẻ em trong quá trình giải quyết ly hôn.

Trong quá trình giải quyết ly hôn, việc xác định ai là người trực tiếp nuôi con trong cũng đóng vai trò rất quan trọng. Điều 81 Luật này đã quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:

 Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết địnhgiao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Như vậy, sau ly hôn, người trực tiếp nuôi con sẽ do cha, mẹ tự thỏa thuận. Thông thường, chỉ trong những trường hợp như người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con thì người mẹ mới không có quyền trực tiếp nuôi dưỡng con. Bên cạnh đó, trong trường hợp hai bên cha mẹ không thỏa thuận được ai là người trực tiếp nuôi con thì Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên nuôi, nhưng sẽ căn cứ vào lợi ích mọi mặt của con và cũng sẽ xem xét nguyện vọng của con nếu con trên 07 tuổi. Điều này, là phù hợp với quy định ở Điều 12 Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1990: “Các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em và những quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách thích đáng, tương ứng với độ tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ em...”.  Vì trẻ em từ 07 tuổi trở lên đã ý thức được những điều xung quanh nên hoàn toàn có thể bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình.

Đặc biệt, là quy định con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Điều này hoàn toàn phù hợp, đã góp phần bảo vệ trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, trẻ sẽ nhận được sự chăm sóc cần thiết nhất và đồng thời cũng bảo vệ quyền được làm mẹ và chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người phụ nữ.

Bên cạnh đó, để bù đắp cho trẻ em, để các em được nuôi dưỡng, chăm sóc như thời kì hôn nhân chưa đổ vỡ thì Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 còn quy định cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con. Trường hợp cha mẹ không trực tiếp nuôi con vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con được bảo đảm ngay cả trong trường hợp cha mẹ đã bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.

Ngoài ra, Điều 85 Luật này cũng hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên trong các trường hợp: Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; Phá tán tài sản của con; Có lối sống đồi trụy; xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Bị hạn chế quyền đối với con hoàn toàn là lỗi của cha, mẹ, do vậy, mặc dù bị hạn chế về quyền nhưng cha, mẹ vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ khác đối với con, trong đó có nghĩa vụ cấp dưỡng.

Hãng Luật Anh Bằng trân trọng được thông tin đến Quý bạn đọc quan tâm tham khảo * Nếu có bất kỳ vấn đề pháp lý nào bận tâm xin mời liên hệ với chúng tôi để được tư vấn, trợ giúp pháp lý kịp thời. Đường dây nóng tư vấn toàn quốc: 0243.7.675.594 (HC) | 0913 092 912 - Zalo 0982 692 912 (cả ngày Thứ 7, CN)

Trân trọng.

Hãng Luật Anh Bằng | Luật sư tư vấn | Dân sự | Đất đai | Hôn nhân Gia đình | Kinh tế | Lao động | Hành chính | Tranh tụng | Hình sự...

HÃNG LUẬT ANH BẰNG | ANH BANG LAW. Since 2007 | VPGD: P. 905, Tòa nhà CT 4.5, ngõ 6, Phố Dương Đình Nghệ, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội | Dây nói: 0243.7.673.930 * 0243.7.675.594 * E : luatsuanhbang@gmail.com | Hotline GĐ :0913 092 912 - 0982 692 912 (Zalo)

Share

Đường dây tư vấn nóng của HÃNG LUẬT ANH BẰNG

0913. 092. 912 - 0982 69 29 12
0243. 7.675.594 - 0243. 7. 673.930
luatsuanhbang@gmail.com
P.905, tầng 9 tòa nhà CT4.5, Ngõ 6, phố Dương Đình Nghệ, P. Yên Hòa, Q. Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, Việt Nam